Sự
Trông Cậy Đổi Sợ Hãi Thành Đức Tin
Thi thiên 23:
“Đức Giê-hô-va là Đấng chăn giữ tôi: tôi sẽ chẳng thiếu thốn
gì. Ngài khiến tôi an nghỉ nơi đồng cỏ xanh tươi, dẫn tôi đến mé nước bình tịnh.
Ngài bổ lại linh hồn tôi, dẫn tôi vào các lối công bình, vì cớ danh Ngài. Dầu
khi tôi đi trong trũng bóng chết, tôi sẽ chẳng sợ tai họa nào; vì Chúa ở cùng
tôi; Cây trượng và cây gậy của Chúa an ủi tôi. Chúa dọn bàn cho tôi trước mặt kẻ
thù nghịch tôi; Chúa xức dầu cho đầu tôi, chén tôi đầy tràn. Quả thật, trọn đời
tôi Phước hạnh và sự thương xót sẽ theo tôi; Tôi sẽ ở trong nhà Đức Giê-hô-va cho
đến lâu dài”.
Đối
với hết thảy chúng ta đến nhóm lại ở đây hôm nay, sự tử tế và nhơn đức của Bà Smith
cả hai là nguồn đau buồn hiện tại của chúng ta, vì giờ đây chúng ta sẽ rút tỉa
lợi ích từ đời sống của bà. Sự nhơn đức và tử tế của Bà Smith là nguồn ký ức ấm
áp mà chúng ta đã tìm cách nhớ đến và làm mới lại trong sự khen ngợi bà ấy cách
đây vài phút. Hết thảy chúng ta có thể vừa vui mừng và vừa đau buồn, thích ứng
với sự nhơn đức của người bạn, người vợ và người mẹ nầy.
Cơ
đốc nhân thậm chí có thể làm nhiều hơn như thế nầy. Người nào về mặt cá nhân đã
đem lòng tin cậy nơi Đức Chúa Jêsus Christ cũng có thể dâng lên lời cảm tạ vì
những thất bại và khiếm khuyết của những người đã chạm đến đời sống của họ, và đã
qua đời. Trong khi chúng ta không nhắm vào thất bại của một người vào thời điểm
qua đời của họ, hết thảy chúng ta đều công nhận rằng có những thất bại. Cơ đốc
nhân có thể dâng lời cảm tạ vì những thất bại của những người mà đời sống của
những người ấy đã chạm đến họ vì cớ sự bảo đảm rằng Đức Chúa Trời làm cho "mọi sự hiệp lại làm ích
cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định" (Rôma 8:28).
Vì cớ đó, Giôsép không những có thể tha thứ cho các anh mình vì đã bán ông đi
làm nô lệ, ông có thể công nhận bàn tay nhơn từ của Đức Chúa Trời trong hành động
ác độc nầy, cung ứng cho ông với cơ hội lấy thiện báo ác, và để cứu nhiều sinh
mạng trong chính gia đình của ông, mặc dầu họ không tha mạng của ông (xem Sáng thế ký 50:20).
Được
chia sẻ với quí vị trong nổi buồn vui khi nhắc nhớ lại những việc tốt lành mà Đức
Chúa Trời đã đem vào nhiều đời sống chúng ta qua Bà Smith quả là một đặc ân của
tôi. Nhưng, là một nhà truyền đạo Tin Lành, đây cũng là bổn phận của tôi phải
nhắc cho quí vị nhớ rằng số phận đời đời của chúng ta không được quyết bằng tỉ
lệ những việc lành của chúng ta so với những lầm lỗi và thất bại của chúng ta, những
điều ấy Kinh thánh gọi đích danh là tội lỗi.
Vào
lúc bắt đầu buổi thờ phượng, một phân đoạn Kinh thánh quen thuộc đã được đọc
lên – Thi
thiên 23. Thi thiên nầy là một Thi thiên mà nhiều người rất ưa thích,
đặc biệt khi một người bị dẫn đến mặt đối mặt với thực tại nghiệt ngã của sự chết.
Thi thiên ấy mô tả, theo thể văn thơ, sự bình an và tin cậy mà David đang có, ở
bề mặt của nghịch cảnh và sự chống đối từ các kẻ thù của ông, rồi ngay cả sự chết
nữa. Có phân đoạn Kinh thánh khác, gần như là không quen thuộc, phân đoạn ấy
cho chúng ta biết rằng ý thức bình an và an ninh của David không phải là một ý
thức tự nhiên đâu, mà là siêu nhiên. Hãy xem xét mấy lời nầy, từ ngòi viết của
tác giả vô danh trong Tân Ước, sách Hêbơrơ:
“Vậy thì, vì con cái có phần về huyết và thịt,
nên chính Đức Chúa Jêsus cũng có phần vào đó, hầu cho Ngài bởi sự chết mình mà
phá diệt kẻ cầm quyền sự chết, là ma quỉ, lại cho giải thoát mọi người vì sợ sự
chết, bị cầm trong vòng tôi mọi trọn đời” (Hêbơrơ
2:14-15).
Phân
đoạn Kinh thánh nầy nâng Thi thiên 23 lên tầm cao của nó. Nó nói cho chúng ta biết rằng
sự chết thường tạo ra sợ hãi, chớ không phải tạo ra đức tin. Nó cho chúng ta biết
rằng nổi sợ sự chết đang ngăn trở và ám ảnh hết thảy mọi người trong cuộc sống
của họ. Nó cho chúng ta biết rằng đức tin của David, như đã được tỏ ra trong Thi thiên 23
không phải là tự nhiên, mà là siêu nhiên.
Khi
chúng ta đạt tới mức tôn cao đời sống và ký ức của Mary Smith, chúng ta cũng đạt
tới chỗ phải đối mặt với thực tại sự chết. Chúng ta cũng đạt tới mức nhìn biết
chúng ta cũng sẽ kinh nghiệm sự chết. Nếu chúng ta thành thực với bản thân mình,
có người phải nhìn nhận rằng đối diện với sự chết hôm nay là một kinh nghiệm đáng
sợ, giống như sách Hêbơrơ cho chúng ta biết vậy. Nhiều người khác thực sự có thể
đồng hoá với David, và sự bình an, sự an ninh mà ông đã nhìn biết và ấp ủ. Trong
thư tín viết cho người thành Têsalônica, Phaolô đã mô tả hai đáp ứng đối ngược
nầy với sự chết bằng lời lẽ sau đây:
“Hỡi anh em, chúng tôi chẳng muốn anh em
không biết về phần người đã ngủ, hầu cho anh em chớ buồn rầu như người khác
không có sự trông cậy” (I Têsalônica 4:13).
Phaolô
mong Cơ đốc nhân xem sự chết khác với sự nghỉ ngơi. Ông nói cho chúng ta biết, Cơ
đốc nhân sẽ đau buồn, nhưng họ sẽ buồn rầu trong sự trông cậy. Sự nghỉ ngơi chẳng
có sự trông cậy chi hết. Đâu là sự trông cậy đó? Điều chi tạo ra sự khác biệt vậy?
Đặc
ân của tôi trong dịp nầy, là chia sẻ với quí vị làm thế nào có thể buồn rầu mà
lại có sự trông cậy. Niềm vui thích của tôi là chia sẻ với quí vị là làm thế
nào để quí vị có thể đổi nổi sợ hãi sự chết để có được đức tin của David. Trong
vài phút kế đây, tôi muốn chỉ ra cho quí vị thấy sự trông cậy mà David đã kinh
nghiệm, và những gì ông tỏ bày ra trong Thi thiên 23. Nguồn của sự trông
cậy nầy được thấy có trong nội dung của cả hai phân đoạn Kinh thánh mà quí vị đã
nghe hôm nay. Cho phép tôi đưa ra vài lời bình về sự trông cậy mà Đức Chúa Trời
hiến cho hết thảy những ai đối diện với sự chết, một sự trông cậy đổi sự hãi
thành đức tin.
David
không sợ hãi. Ông không lo sợ mọi điều mà các kẻ thù sẽ làm cho ông. Ông không
sợ chết. Nổi sợ của ông được thế chỗ bằng đức tin. Cơ sở cho đức tin của David được
thể hiện ra trong Thi thiên 23.
·
Thứ
nhứt, đức tin của David đặt nơi Đức Chúa Trời.
·
Thứ
hai, đức tin của David đặt nơi sự thực Đức Chúa Trời là Đấng Chăn Giữ ông.
·
Thứ
ba, đức tin của David đã thế chỗ cho nổi sợ các kẻ thù nghịch ông, và ngay cả sự
chết nữa.
·
Thứ
tư, nổi sợ sự chết của David không còn nữa vì ông được bảo đảm bởi sự hiện diện
của Đức Chúa Trời.
·
Thứ
năm, đức tin của David đặt nơi sự thực Đức Chúa Trời đã hiện diện với ông, trong
cái sống, trong cái chết, và suốt cõi đời đời.
Phân
đoạn Kinh thánh mà mới vừa đọc từ sách Hêbơrơ cơi rộng lời lẽ của David trong Thi thiên 23,
giải thích thể nào đức tin của David nơi Đức Chúa Trời có thể giải phóng ông ra
khỏi nổi sợ sự chết. Tác giả thơ Hêbơrơ cung ứng cho chúng ta hai lẽ thật quan
trọng, giải thích đức tin của David trong Thi thiên 23.
(1) Đấng Chăn Chiên trở
thành con chiên
Trong
Thi thiên 23,
David mô tả mình là một con chiên, còn Đức GIÊHÔVA
là Đấng Chăn Giữ ông. Trong Cựu Ước, tội lỗi của Israel tạm thời được chuộc bởi
của lễ một con chiên. Tiên tri Êsai đã nói về Cứu Chúa hầu đến trong vai tro một
Con Chiên, là Đấng gánh lấy tội lỗi của loài người:
“Người bị hiếp đáp, nhưng khi chịu sự khốn
khổ chẳng hề mở miệng. Như chiên con bị dắt đến hàng làm thịt, như chiên câm ở
trước mặt kẻ hớt lông, người chẳng từng mở miệng” (Êsai 53:7).
Giăng
Báptít là một vị tiên tri, tiên tri có đặc ân giới thiệu Chúa Jêsus người Naxarét
là Đấng Mêsi của Đức Chúa Trời. Khi Giăng nhìn thấy Chúa Jêsus, ông đã la lên:
David
có thể vui mừng vì đã ở với Ngài là Đức GIÊHÔVA,
là Đấng Chăn Giữ ông. Giờ đây, chúng ta có thể nhìn thấy Đấng Chăn Hiền Lành đã
trở thành một con chiên (như David).
(2) Chiên Con của Đức Chúa
Trời đã chịu chết vì chúng ta, và đã thắng hơn sự chết bởi sự phục sinh của
Ngài.
Không
những Đức Chúa Jêsus Christ ngự đến như Chiên Con của Đức Chúa Trời, chịu chết
cho những ai sẽ là chiên của Ngài. Chúa Jêsus đã sống lại từ kẻ chết, thắng hơn
sự chết. Và vì thế, người nào tin cậy nơi Ngài không còn phải sợ hãi sự chết nữa.
Sự chết đã bị đánh bại bởi Chiên Con là Đấng đã bị giết, và Ngài đã sống lại.
Cho
phép tôi lấy minh hoạ từ đời sống của Ápraham, thể nào nổi sợ sự chết đã cầm tù
chúng ta như hàng tôi mọi, và thể nào đức tin nơi Đức Chúa Jêsus Christ giải
phóng chúng ta. Có lẽ Ápraham là một trong những vị tộc trưởng nổi tiếng nhất
trong Cựu Ước. Người Do thái vốn khoe khoang rằng họ là dòng dõi của ông. Nhưng
Ápraham, giống như bao người khác, rất sợ sự chết, và nổi sợ nầy đã cầm tù ông.
Đức
Chúa Trời đã kêu gọi Ápraham ra khỏi quê hương ông rồi đem ông đến vùng đất Israel,
mà Ngài đã hứa ban cho ông cùng dòng dõi của ông. Đức Chúa Trời đã hứa chúc phước
cho Ápraham qua dòng dõi của ông. Nhưng Ápraham và Sara không có khả năng sanh
con. Họ già lắm rồi, và trải qua một thời gian việc sanh con cái đã trở thành
tình trạng bất khả thi về mặt con người.
Khi
nạn đói xảy đến trong xứ Canaan, Ápraham đem Sara, vợ người, qua xứ Aicập. Nhìn
biết vợ mình vốn xinh đẹp, và sợ người Aicập sẽ giết ông, để lấy vợ ông làm vợ,
Ápraham căn dặn Sara phải nói dối, và coi nàng là em gái của ông, chớ chẳng phải
vợ ông. Điều nầy khiến cho nàng đủ điều kiện để kết hôn, và dường như đặt lời hứa
của Đức Chúa Trời vào chỗ nguy hiểm, vì “dòng dõi” được hứa cho phải đến qua sự kết hợp
của Ápraham và Sara. Giờ đây, đã có mối nguy hiểm, ấy là Sara sẽ trở thành vợ của
một người Aicập, và sanh con cái cho người.
Đức
Chúa Trời đã bảo hộ Sara, và phán cùng Pharaôn, là người sắp sửa lấy nàng làm vợ
của mình. Khi Pharaôn quở trách Ápraham, và hỏi lý do tại sao ông dám nói dối về
vợ của mình, Ápraham nhìn nhận rằng ông vốn sợ chết lắm. Có người mong rằng
kinh nghiệm đau đớn nầy trong xứ Aicập đã chữa lành cho Ápraham không còn nói dối
nữa, song chẳng phải vậy đâu. Ít nhất là có thêm một trường hợp nữa, Ápraham và
Sara đã nói dối một lần nữa. Đức Chúa Trời một lần nữa buông tha cho họ.
Đức
Chúa Trời đã giải quyết nan đề nói dối của Ápraham bằng cách xử lý với nổi sợ
hãi sự chết của ông. Ngài ban cho Ápraham và Sara một đứa trai, khi họ tưởng chừng
như "sắp chết"
chẳng còn mong đến việc sanh con nữa. Con trai của họ là Ysác, đã ra đời cho họ
trong lúc họ tuổi già. Thực sự Ysác là một đứa con của phép lạ. Sau một thời
gian, Đức Chúa Trời đặt đức tin của Ápraham vào thử nghiệm lớn lao nhất. Ngài bảo
ông phải đem con trai ông là Ysác làm của lễ, đặt nó vào chỗ chết. Đây chỉ là một
thử nghiệm mà thôi, nhưng Ápraham vốn không biết sự ấy. Từ Tân Ước, chúng ta biết
lý do tại sao Ápraham lại bằng lòng vâng theo Đức Chúa Trời, và đặt con trai
ông vào chỗ chết. Ông đã đạt tới mức tin cậy Đức Chúa Trời là Đấng có thể làm
cho kẻ chết sống lại. Đức Chúa Trời đã ban cho ông một đứa con trai, khi họ tưởng
chừng như sắp chết cả rồi. Bây giờ, nếu ông phải đặt con trai mình vào chỗ chết,
Đức Chúa Trời sẽ làm cho nó sống lại. Đây là đức tin của Ápraham, và đức tin ấy
thắng hơn nổi sợ sự chết của ông.
Đây
là đức tin mà David đang viết ra trong Thi thiên 23. Đây là những tin tức
tốt lành của Tin Lành, về đức tin ấy tác giả thơ Hêbơrơ đang nói tới. Sự con người
sợ chết cứ xoay vòng mãi. Chết là án phạt dành cho tội lỗi, và hết thảy chúng
ta đều là tội nhân, đáng phải chết. Nhưng Đấng Chăn Hiền Lành đã trở thành một
con chiên, phải nói như thế. Ngài mặc lấy xác thịt con người rồi đến sống giữa
vòng con người. Đức Chúa Jêsus Christ chịu chết vì tội lỗi của chúng ta, và
gánh lấy án phạt sự chết, là án phạt của chúng ta. Đức Chúa Trời đã làm cho
Ngài sống lại từ kẻ chết. Hết thảy những ai tin cậy nơi Ngài đều mất đi nổi sợ
sự chết và tìm gặp đức tin, sự bình an, và sự trông cậy mà về điều đó David đã
viết ra.
Đổi
nổi sợ sự chết để lấy đức tin nơi Đức Chúa Jêsus Christ là một quyết định riêng
tư. David không nói đến Đức GIÊHÔVA là "Đấng Chăn Giữ
của chúng ta" mà là "Đấng Chăn Giữ [của] tôi". Quí vị đã nắm
bắt được thực tại sự chết là án phạt của Đức Chúa Trời dành cho tội lỗi chưa vậy?
Về mặt cá nhân, quí vị đã tiếp nhận Đức Chúa Jêsus Christ là Chiên Con của Đức
Chúa Trời và là Đấng Chăn Hiền Lành của quí vị chưa? Nếu rồi, quí vị sẽ chẳng
còn bị nổi sợ sự chết bắt làm tôi mọi nữa rồi. Lời lẽ của David trong Thi thiên 23
không còn là cách bày tỏ ra đức tin của ông thôi đâu, mà cũng còn là của quí vị
nữa đấy.
Chính
với đức tin nầy mà chúng ta có thể buồn rầu hôm nay, nhưng chúng ta sẽ buồn rầu
với sự trông cậy, nếu Đức GIÊHÔVA là Đấng Chăn
Giữ của chúng ta, vì Ngài đã trở thành Chiên Con của Đức Chúa Trời trong chỗ của
chúng ta. Nguyện sự trông cậy nầy trở thành sự trông cậy của quí vị trong giờ đau
buồn nầy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét